Vậy bước phát triển tiếp theo của web là gì? Với câu hỏi đặt ra là những công nghệ nào sẽ định hình web trong vài năm tới. Những người được khảo sát gồm nhiều nhà phân tích, kỹ sư và những nhà quản trị đã có những dự đoán tập trung vào 5 công nghệ chủ chốt và được đề cập thường xuyên nhất. Ngoài ra, trong bài viết sẽ có nhận định của các chuyên gia về Google và Facebook.
1. Web di động sẽ thông minh hơn
Trong
bước ngoặt của lịch sử điện toán, lần đầu tiên, số lượng điện thoại
thông minh (smartphone) bán ra trên toàn cầu trong quý 4 năm 2010 vượt
qua máy tính. Các thiết bị di động gia tăng một cách đáng kinh ngạc cả
về tốc độ và quy mô của nó. Mỗi ngày, các hãng điện thoại kích hoạt
350.000 chiếc chạy hệ điều hành Android của Google. Ước tính có 15%
lượng tìm kiếm trên cỗ máy Google liên quan đến các thiết bị di động.
Hơn 10 tỷ lượt ứng dụng được tải về từ App Store của Apple.
Theo
nhận xét của Gina Trapani, người triển khai ThinkUp (smarterware.org)
cho biết, Google đang chiến thắng về web, còn Facebook chiến thắng về
mạng xã hội. Google đang thiếu về xã hội. Họ đang cố gắng để làm việc
này nhưng có lẽ đã muộn.
Như chúng ta
đã thấy, công nghệ di động đã làm thay đổi thói quen của nhiều người
dùng: các thiết bị di động đang trở thành cổng thông tin thuận tiện cho
họ trong việc trực tuyến trên mạng xã hội. Họ có thể sử dụng điện thoại
để ghi lại các "cảm nhận" bằng giọng nói, đăng ảnh, chơi game và thu
thập thông tin bạn bè. Hơn 250 triệu người dùng truy cập Facebook ngay
trên các thiết bị di động của họ, và 40% tin nhắn (tweet) đến từ các nền
tảng di động. Thực tế, iPhone 4 đã trở thành chiếc máy ảnh phổ biến cho
những cư dân Flickr.
Các chuyên gia cho rằng, đây chỉ mới là
những khởi đầu. Sự mạnh mẽ pha trộn giữa khả năng di động và xã hội sẽ
truyền "cảm hứng" cho nhiều loại hình dịch vụ và sản phẩm mới và trở
thành nền tảng trong cách làm việc, buôn bán và giải trí của tất cả
chúng ta. Yếu tố chính thúc đẩy sự chuyển đổi này chính là ngữ cảnh
(context).
Theo Richard MacManus, Blogger của ReadWriteWeb
(readwriteweb.com), dùng điện thoại di động có nghĩa là người dùng muốn
thông tin về ngữ cảnh. Vì vậy, thách thức của Google là làm thế nào để
cung cấp cho người dùng những khuyến cáo cá nhân khi họ đang di chuyển,
khác với danh sách các kết quả tìm kiếm. Facebook làm tốt việc này, vì
họ có ngữ cảnh xã hội (social context) để tìm kiếm trên các điện thoại
di động.
Trong hầu hết quá trình sử dụng điện thoại, những ngữ
cảnh cụ thể đều được ghi lại. Đó là vị trí, ngày, giờ, bạn làm gì ở đó,
gần nơi nào, bạn đã làm gì trước đó.
Ngoài
ra, còn có bản đồ xã hội (social graph) của bạn – những kết nối giữa
các cá nhân cũng như các đối tượng và cá nhân – với các bit dữ liệu có
liên quan đến ngữ cảnh đó (chẳng hạn khi bạn bè chia sẻ thông tin về vị
trí đó). Tương lai của tính toán di động (mobile computing) tùy thuộc
vào các công ty và những nhà phát triển các công nghệ - các phân tích về
dữ liệu và các thuật toán máy học (machine learning algorithm), chẳng
hạn khả năng "cảm" dữ liệu ngữ cảnh để đưa ra kết quả tìm kiếm, quảng
cáo và nhiều dịch vụ khác tốt hơn.
Để biết những tiến triển về
điều này, bạn hãy xem một phần thông tin ngữ cảnh của các công ty đang
làm về thông tin địa lý (geolocation). Facebook tung ra dịch vụ Places,
và Google khai trương dịch vụ Latitude (khởi đầu gồm có Foursquare và
Gowalla). Sử dụng định vị toàn cầu (GPS) và dữ liệu Wi-Fi từ điện thoại
của nhiều người, những dịch vụ này cung cấp thông tin những vị trí cụ
thể và những dịch vụ giảm giá (deal). Nếu đến cửa hàng, bạn sẽ nhận được
phiếu giảm giá; Nếu bạn ở quán cà phê, bạn sẽ nghe bạn bè nói về nơi
này và những nơi khác ở gần đó có giảm giá chẳng hạn. Vì vậy, những gì
mà các thiết bị di động đang hỗ trợ thực hiện là liên kết thế giới số
đến thế giới thực – và như vậy nhiều ứng dụng có thể chấp nhận được và
con người sẽ được kết nối với nhau nhanh hơn.
Dennis Woodside,
Phó chủ tịch Google nói rằng bạn có thể nhìn thấy những thay đổi tương
tự của ngành công nghiệp và kinh doanh từ khi web bắt đầu phổ biến và
hiện nay nó được phát triển nhanh hơn nhiều.
2. Video làm "tràn ngập" web
Bạn
có thể trả lời nhanh câu hỏi: Cỗ máy tìm kiếm nào lớn thứ 2 thế giới?
Nếu trả lời là Yahoo hay Bing, bạn đã sai. Câu trả lời là YouTube.
Mỗi
tháng, những người dùng YouTube trên toàn thế giới bỏ ra 2,9 tỉ giờ -
tương đương 331.050 năm để truy cập trang web này. Số lượng video clip
được tải lên YouTube trong 60 ngày nhiều hơn 3 mạng lớn của Mỹ có được
trong vòng 60 năm.
Theo Robert Scoble, Blogger của Scobleizer
(scobleizer.com), sự kỳ vọng của chúng ta ngày càng tăng. Chúng ta mong
muốn xem phim và giải trí bất kỳ lúc nào chúng ta muốn. Tại sao ta phải
thức đêm xem "American Idol" trên một kênh nhất định? Tại sao không
"đẩy" lên iPad để xem bất kỳ khi nào mình muốn?
Các nhà phân
tích cho rằng, khi được Google mua lại vào năm 2006, YouTube chỉ là
"dòng chảy nhỏ giọt" trong "cơn lũ" video gây tràn ngập web. Thực vậy,
hiện nay, lưu lượng video đã vượt qua điểm-tới-điểm cũng như vượt cao
hơn hình thức truyền dữ liệu trong các đường truyền viễn thông. Chỉ
riêng các phim được truyền trực tiếp bằng Netflix đã có thể chiếm khoảng
20% băng thông của Mỹ vào mỗi đêm. Khi chuyển đổi nhiều chương trình TV
lên web, những chiếc TV "kiêm" chức năng kết nối "Net" (có thể gọi là
Smart TV, xem thêm bài viết "Ti vi thông minh", ID:A1106_70) tối ưu cho
video; những chiếc smartphone có thể dễ dàng tạo nội dung, xem và chia
sẻ đã góp phần tăng tốc phát triển xu hướng này.
Theo Danny Sullivan, Blogger của Search Engine Land (searchengineland.com), Google có thể mất thị phần về video nhiều hơn Facebook. Vì YouTube là trang web chia sẻ video phổ biến và cực kỳ lớn, tuy vẫn phải đối mặt với một số mối đe dọa như chuyển đổi nội dung chuyên nghiệp, vì việc chuyển đổi này khá phức tạp.
Bản đồ xã hội có thể sẽ là công cụ khuyến cáo (recommendation) có tác động mạnh. Đây là "sân chơi" mà web xã hội có thể tham gia. Mới đây, Facebook đã hợp tác với Warner Bros. để cung cấp dịch vụ cho thuê phim trực tuyến, bắt đầu với phim Dark Night hồi tháng 3. Cuộc "đổ bộ" này gây ra mối đe dọa lớn cho các dịch vụ xem bao nhiêu trả bấy nhiêu (pay-per-view) của các công ty truyền hình cáp. Vì Facebook có ưu thế là có số lượng người dùng khổng lồ và thực tế là hãng này có thể sử dụng nhiều kết nối xã hội của người dùng, những lời bình luận (comment) của họ, và cả "likes" các phim một cách hiệu quả.
Sức hấp dẫn của video trực tuyến là có thể mang lại nguồn thu nhập khổng lồ, vì vậy các công ty đang nỗ lực tổ chức lại phần mềm và các hạ tầng mạng phù hợp hơn. Trọng tâm của những vấn đề này đã gây ra "trận chiến" giữa các chuẩn. Ngày càng có nhiều web video dựa vào công nghệ mã hóa bị vướng tác quyền (patent-encumbered) H.264. Google cho biết, H.264 là chuẩn mở, miễn phí cho tất cả định dạng video, vì thế họ ngưng hỗ trợ H.264 và đang tiến hành thay thế bằng WebM.
Độ phân giải sẽ là trọng tâm khi có chuẩn web HTML5 chính thức. HTML5 sẽ định ra các định dạng video – các đối thủ gồm H.264, WebM và một số đối thủ khác – tất cả các trình duyệt sẽ hỗ trợ. David Recordon, quản lý cao cấp các chương trình mở của Facebook cho rằng, không có việc định dạng chiếm ưu thế, mà những định dạng sẽ làm cho các ứng dụng phong phú hơn cho cả trên web và các thiết bị di động, giúp người dùng tạo và xem video dễ dàng hơn bao giờ hết.
3. Nhiều đối tượng tham gia mạng xã hội
Sau
tình trạng khẩn cấp tại nhà máy điện hạt nhân Dai-ichi Fukushima ở Nhật
vừa rồi, các cơ quan chính phủ và các cá nhân thiết lập các bộ đếm
Geiger để đo bức xạ. Như nhiều cảm biến hiện nay, những bộ đếm Geiger
đưa kết quả đo được lên web, cho phép mọi người theo dõi thông tin về
các mức bức xạ.
Đây được gọi là Internet of Things, nơi mà mọi
thiết bị dân dụng như tủ lạnh, bóng đèn, lò nướng, các dụng cụ đo lường
kỹ thuật cao, cảm biến nhúng và phân loại các đối tượng... đều được kết
nối với Internet.
Theo Jeff Clavier, nhà đầu tư SoftTech VC
(softtechvc.com), nhiều thiết bị kết nối này sẽ sử dụng hệ điều hành
Android, vì vậy Google sẽ được hưởng lợi từ xu hướng này dù họ đã tìm ra
cách tích hợp dữ liệu vào chỉ mục tìm kiếm. Còn Facebook không phải là
không có nhưng hiện nay, Facebook đang thiếu lớp xã hội (social layer)
trong các thiết bị này. Có thể trong tương lai, Facebook sẽ tìm ra những
thứ thú vị khác.
Được đề xuất hơn một thập kỷ trước, IoT cuối cũng đang hình thành, nhờ các linh kiện điện tử rẻ hơn, các cải tiến về công nghệ không dây, và tính sẵn có của linh kiện điện tử DIY (Do It Yourself) như Arduino, vi điều khiển nguồn mở nổi tiếng.
Bản đồ dữ liệu từ các cảm biến thường gặp cho đến các bản đồ xã hội sẽ cung cấp giá trị thông tin và những sự việc liên quan đến chúng ta, cho phép mọi người dễ dàng tìm kiếm những thông tin cần thiết; vì thế, cũng đừng ngạc nhiên nếu chiếc tủ lạnh của bạn cũng tham gia Facebook.
Theo Richard MacManus, Blogger của ReadWriteWeb (readwriteweb.com), các cảm biến sẽ bơm hàng "tấn" dữ liệu mới vào Internet. Google hay Facebook sẽ là công ty Internet of Things, chúng ta hãy chờ xem.
4. Dữ liệu web sẽ bùng nổ
Theo
Marissa Mayer - nhà điều hành Google cho biết dữ liệu đang "sinh sôi
nảy nở" với tốc độ nhanh hơn cả định luật Moore. Theo hãng nghiên cứu
IDC, số lượng dữ liệu được tạo ra trên toàn cầu vào năm vừa qua vượt mức
1 zettabyte (1 tỉ terabyte). Việc "tích lũy" chưa có tiền lệ này đã dẫn
đến một cuộc đua công nghệ, các công ty đang tìm kiếm cách để chứa,
quản lý và phân tích thông tin.
Dĩ nhiên, Google là hãng tiên
phong trong việc phát triển các công nghệ "nghiền" dữ liệu
(data-crunching), chẳng hạn công cụ MapReduce, chứa một tập các thuật
toán phân bố và xử lý các khối dữ liệu lớn. Ngoài ra, Google có các
trung tâm dữ liệu siêu bí mật (supersecret) làm việc như các máy tính
khổng lồ (warehouse-sized computer).
Theo Gina Trapani, nhà phát
triển ThinkUp (smarterware.org), Google có rất nhiều dữ liệu được thu
thập từ web trong thời gian rất lâu, còn Facebook có được dữ liệu do
người dùng tạo ra. Dữ liệu của Facebook có nhiều điều thú vị hơn so với
Google
Dữ liệu mới sẽ có một phần rất lớn về web xã hội. Hiện
tại, mỗi tháng những người dùng Facebook chia sẻ hơn 30 tỉ mẫu nội dung -
các liên kết web, những mẫu tin, những bài viết trên blog, hình ảnh.
Những người dùng Twitter tạo ra hơn 155 triệu tweet/ngày (tức tăng hơn
55 triệu so với năm trước). Hơn nữa, cả 2 công ty đang thiết lập các nền
tảng tập hợp dữ liệu, chấp nhận các công ty khác truy cập đến các kết
quả thông qua API hay các giao diện chương trình ứng dụng. (Facebook
Connect, cho phép các trang web truy cập dữ liệu công cộng từ những
người dùng Facebook, đó là một API điển hình). Dĩ nhiên, sự phát triển
của các mối liên kết vẫn còn nhiều dữ liệu trực tuyến ở dạng "trứng
nước" nhưng tiến triển theo dạng xoắn ốc mở rộng.
Xoắn ốc này
đang dần rời khỏi tay Google vì tính năng tìm kiếm xã hội (socia search)
và thời gian thực, ngoài ra còn là mối đe dọa cho các công ty tìm kiếm
khác. Facebook, Twitter và các trang hướng đến xã hội khác tích lũy khối
lượng lớn dữ liệu và kết nối dữ liệu này đến các bản đồ xã hội của
người dùng, có thể giúp người dùng tìm thông tin theo cách mà Google
không thể làm được.
Trong cuộc đua này, các công ty công nghệ, gồm cả các công ty mới sáng lập như Cloudera đã xây dựng các công nghệ dữ liệu lớn (big-data) tốt hơn: kiến trúc máy chủ hoàn toàn mới, hệ thống cơ sở dữ liệu rất khác biệt từ các kế hoạch liên quan, các nền (framework) ngôn ngữ mới cho đến việc kết hợp các diện mạo tốt nhất của nhiều ngôn ngữ lập trình. Ngoài ra, các công ty còn nhờ vào các nhóm chuyên gia trình độ cao về khoa học dữ liệu. Dù các công ty giữ bí mật về những "kho" công nghệ của họ nhưng phần lớn đều dựa vào nguồn mở.
5. Giọng nói và cử chỉ sẽ thay đổi tương tác giữa máy tính và người
Hiện nay, tương tác giữa máy tính và con người đang tiến triển. Các smartphone và tablet với màn hình cảm ứng đã phổ biến, hỗ trợ tương tác như các bàn phím vật lý và là một giao diện trực quan, ngay cả trẻ mới biết đi cũng có thể "chọc ngoáy" trên đó.
Trong ứng dụng bằng giọng nói, đã có Google triển khai ứng dụng tìm kiếm bằng giọng nói cho Android; ứng dụng dịch ngôn ngữ gần như tức thời, chẳng hạn từ tiếng Tây Ban Nha sang tiếng Anh.
Theo Charlene Li, nhà phân tích của Altimeter Group (altimetergroup.com), ứng dụng cử chỉ và giọng nói có một vài trở ngại khó vượt qua do cần phải có các khoản đầu tư lớn. Những giao tiếp tự nhiên (natural interfaces) thực sự rất khó phát triển, vì cần có nguồn lực nghiên cứu và phát triển (R&D) đồ sộ.
Tiếp theo ứng dụng cử chỉ và giọng nói, làn sóng giao tiếp kế tiếp sẽ là... vẫy tay (waving). Năm ngoái, Microsoft đã tung ra Kinect, một cảm biến chuyển động 3D dành cho thiết bị chơi game Xbox 360. Thiết bị này phát ra mẫu các chấm hồng ngoại không thể nhìn thấy bằng mắt thường trong môi trường bình thường. Sau đó, thiết bị dùng cảm biến để nhận dạng các chấm hồng ngoại này, nhận diện khoảng cách dựa trên cách các đối tượng và người chơi làm thay đổi mẫu này. Còn gì tuyệt vời hơn, khi chơi game chỉ bằng cách "quơ" tay với Kinect – một loại giao tiếp "tự nhiên". Có vài suy đoán rằng có thể Microsoft sẽ tích hợp các điều khiển Kinect vào Windows.
Theo các chuyên gia, những cải tiến mới nhất trong các giao tiếp tự nhiên sẽ cung cấp một cái nhìn mới về tương lai tiếp cận nhanh (fast-approaching) mà người dùng sẽ tương tác với web – không chỉ gõ và chạm mà còn nói và "khoa tay múa chân" trước các thiết bị.